Categories
Linux - Unix

Cứu dữ liệu bị mất

Computer trivia: What computer operating system did 2001’s Arthur Clarke jest would be the first thing HAL removed from his hard drive, in 1997?
Answer: Windows 95

Khi bạn xóa một tập tin hay thư mục nào đó trong hệ thống, thực chất lệnh này chỉ đánh dấu "đã xóa" trong Directory Entry và những thông tin liên quan trong File Allocation Table – FAT (với phân vùng định dạng FAT/FAT32) hoặc đánh dấu "xoá” trong Master File Table – MFT Entry (với phân vùng định dạng NTFS). Lúc này, các vùng (cluster) chứa dữ liệu của tập tin xem như trống và được tính là dung lượng chưa dùng đến của đĩa cứng mặc dù dữ liệu vẫn tồn tại. Khi dữ liệu mới được ghi vào, lúc này dữ liệu cũ mới thực sự bị xóa đi và ghi đè bằng dữ liệu mới. Chúng ta (và cả hệ điều hành) đều không thể "nhìn" thấy được những dữ liệu bị đánh dấu xóa nhưng những phần mềm cứu dữ liệu vẫn nhìn thấy chúng khi quét qua bề mặt đĩa. Vì vậy chúng ta mới cần đến những phần mềm này trong việc khôi phục dữ liệu.

Có rất nhiều phần mềm giúp bạn thực hiện việc này, từ miễn phí cho đến có phí như Ontrack Easy Recovery, Winternals Disk Commander, Active Uneraser, PC Inspector File Recovery, Drive Rescue… Mỗi phần mềm đều có những điểm mạnh – yếu riêng, nhưng nhìn chung, khả năng "cứu hộ" tùy thuộc rất nhiều vào cấu trúc dữ liệu trên đĩa cứng và những thao tác có ảnh hưởng đến các vùng dữ liệu.

CẤU TRÚC CỦA DỮ LIÊU TRÊN ĐĨA CỨNG

Trước tiên, chúng ta cùng tham khảo qua cách thức thông tin của một tập tin được lưu trữ trên đĩa cứng. Với phân vùng FAT, dữ liệu được lưu trữ tại 3 nơi trên đĩa cứng, bao gồm: Directory Entry chứa thông tin về tập tin gồm tên, dung lượng, thời gian tạo và số hiệu cluster đầu tiên chứa dữ liệu của tập tin; FAT chứa số hiệu các cluster được sử dụng cho tập tin và các cluster chứa dữ liệu của tập tin (vùng Allocation). Với phân vùng NTFS, dữ liệu được lưu trữ trong MFT (Master File Table) Entry và vùng Allocation (hình minh họa).

Bất kỳ phần mềm cứu dữ liệu nào cũng cố gắng tìm lại những thông tin từ 3 nơi này để có thể khôi phục đầy đủ nội dung của một tập tin, nếu thiếu (hoặc mất) một trong những thông tin này, dữ liệu không toàn vẹn hoặc không thể khôi phục (xem bảng).

Như vậy, xem xét các trường hợp trên thì khả năng khôi phục dữ liệu thường khá thấp. Trường hợp các cluster của Allocation bị hỏng hoặc bị chép đè, bạn hầu như không thể khôi phục được vì dữ liệu đã bị xóa và chép đè bởi dữ liệu mới. Về lý thuyết, bạn vẫn có thể lấy lại dữ liệu cũ với kỹ thuật MFM (Magnetic Force Microscope) tuy nhiên kỹ thuật này không được áp dụng rộng rãi trên thực tế vì mất nhiều thời gian và chi phí rất cao.

Allocation

Directory Entry

FAT

ü

ü

ü

Tập tin được khôi phục đầy đủ

ü

ü

Tập tin được khôi phục nhưng có thể nội dung không đầy đủ hoặc không thể đọc được.

ü

ü

Tập tin có thể được khôi phục nhưng không đầy đủ thông tin

ü

Khởi động Linux từ đĩa CDComputer trivia: What computer outfit’s ad 1984, run only once during Super Bowl XVIII, did TV Guide declare to be the best commercial of all time, in 1999?
Answer: Apple’s.

Trước đây, nếu muốn sử dụng Linux bạn cần cài hệ điều hành này lên đĩa cứng của máy tính. Nhưng mọi thứ đã thay đổi vì hiện nay xuất hiện vài phiên bản Linux có khả năng chạy trực tiếp từ đĩa CD-ROM, ví dụ như phiên bản Ubuntu Linux mà trong khuôn khổ bài viết này xin tạm gọi là Linux "mì ăn liền".


Tương tự các phiên bản Linux cần cài đặt vào máy tính, Ubuntu Linux cho phép người dùng tải về miễn phí từ Internet (find.pcworld.com/48470) tập tin có phần mở rộng là .iso. Sau khi tải về máy tính, bạn dùng tiện ích ghi đĩa như Roxio Easy CD Creator hay Nero để chép tập tin .iso này lên CD-ROM trắng. Với Roxio Easy CD Creator thực hiện thủ tục sau: nhấn File.Record CD from CD Image hay File.Burn Image (với tiện ích Nero). Khi ghi đĩa xong, bạn có thể sử dụng đĩa CD khởi động Ubuntu này và bắt đầu khám phá thế giới Linux mà không cần trải qua những công đoạn cài đặt đầy khó khăn.


Giống như thực phẩm chế biến sẵn, Linux "mì ăn liền" được cài sẵn vô số ứng dụng để thoả mãn tốt nhất mọi yêu cầu của nhiều đối tượng người dùng. Và do được thực thi trực tiếp từ đĩa CD-ROM nên bạn không thể cài đặt thêm ứng dụng mới hay gỡ bỏ ứng dụng không cần thiết, tinh chỉnh cấu hình để hệ thống hoạt động phù hợp với nhu cầu sử dụng cá nhân như khi dùng Linux được cài đặt trên đĩa cứng. Hơn thế nữa, tốc độ hoạt động của Linux "mì ăn liền" cũng bị hạn chế phần nào do phải dành một phần bộ nhớ RAM để làm vùng nhớ đệm cho hệ điều hành hoạt động. Do vậy, nếu sau khi chạy thử và cảm thấy thích thú với Linux thì bạn nên "hạ sơn" phiên bản Linux "mì ăn liền" đang sử dụng xuống đĩa cứng của máy. Bạn có thể lựa chọn hai phiên bản Linux như Fedora Core do Red Hat tài trợ (find.pcworld.cojm/48472) và Open Circulation của Xandros Desktop (find.pcworld.com/48474). Cần lưu ý rằng phiên bản này chỉ có hỗ trợ ghi lên đĩa CD (không hỗ trợ ghi lên DVD) và Xandros là một sản phẩm thương mại nên nhà sản xuất không cung cấp dạng tải về miễn phí.


Nếu trước đây đã cài đặt Windows trên đĩa cứng thì cần lưu ý khai báo chính xác trong quá trình cài đặt để tiện ích cài đặt Linux tự động thiết lập chế độ khởi động đôi cho hệ thống (cho phép người dùng khởi động Windows hoặc Linux).


Trước khi cài đặt Linux, bạn nên ghi ra giấy các thông số cấu hình hệ thống cần thiết như địa chỉ IP của máy tính, máy chủ DNS, cổng truy cập Internet (gateway). Để có được các thông tin này trong Windows 98/Me, bạn nhấn chuột phải lên biểu tượng Network Neighborhood rồi chọn Properties. Tiếp đến, nhấn đúp chuột vào mục TCP/IP rồi tìm các thẻ IP Address, Gateway và DNS Configuration. Với Windows 2000/XP, nhấn chuột phải lên biểu tượng My Network Places rồi chọn Properties. Trong cửa sổ Network Connections, nhấn chuột phải lên biểu tượng kết nối mạng rồi chọn Properties, sau đó tìm và nhấn đúp chuột lên mục Internet Protocol (TCP/IP). Ngoài ra, bạn cũng nên ghi lại tên, thông số kỹ thuật của màn hình và card đồ họa của máy tính phòng trường hợp trình cài đặt Linux không tự động xác định được các thiết bị này.


KHẮC PHỤC LỖI TIÊN ÍCH NAUTILUS

Tiện ích Nautilus trong phiên bản Ubuntu Linux 5.4 (có tính năng tương tự như Windows Explorer của Windows) có một nhược điểm là tự động đóng các cửa sổ thư mục khi bạn thực hiện mở một thư mục khác. Để khắc phục tình trạng trên, chọn Applications.Run Application, gõ vào Enter>. Trong cửa sổ cây thư mục bên trái, chọn apps.nautilus.preferences và đánh dấu tùy chọn no_ubuntu_spatial ở cửa sổ bên phải (hình 1). Tiếp đến, đóng cửa sổ Configuration Editor lại (tương tự như Control Panel của Windows) để kết thúc. Từ bây giờ, tất cả cửa sổ thư mục sẽ được mở cho đến khi nào bạn ra lệnh đóng.

(st)

Khởi động Linux từ đĩa CD’]

24 replies on “Cứu dữ liệu bị mất”

Comments are closed.